Ngàn năm Nước Nam - Triển lãm đặc biệt theo chủ đề về di vật văn hoá Việt Nam trong bộ sưu tập Bảo tàng Cung điện Quốc gia.
Việt Nam, một quốc gia láng giềng thịnh vượng với dân số gần 100 triệu người, dưới khung cảnh hiện đại hôm nay, nó đã từng ẩn giấu một mảnh quá khứ điêu tàn. Nằm giữa Đông Á và Nam Á, trên bờ biển của lục địa Đông Nam Á, địa chính trị đã làm cho vận mệnh đất nước này không ngừng thay đổi, nhưng nó cũng đã nuôi dưỡng một phong cách riêng. Đây là một Nước Nam vừa quen thuộc lại vừa xa lạ, tuy lịch sử có chút cay đắng, nhưng nó có một nền tảng thuần hậu, vững vàng và hoà nhã.
Triển lãm đặc biệt này chủ yếu được dựa trên sách, tài liệu cổ và cổ vật của Viện bảo tàng, theo chủ đề được chia thành ba mục: từ “Hình ảnh con người và đồ vật của đất nước ngàn năm cổ đại” , “Gốm sứ Đại Việt được ưa chuộng trên thế giới” đến “Ngoại giao linh hoạt của bán đảo rồng” để hiểu lại văn hóa, thành tựu nghệ thuật và bản sắc dân tộc Việt Nam trước thế kỷ 19.
Sự biến đổi của lãnh thổ và đa dạng của các nền văn hóa trong hàng nghìn năm không thể tách rời sự cạnh tranh và hợp tác giữa người Việt và tộc người Chăm trên vùng đất này, cũng như liên quan chặt chẽ đến sự giao lưu với các quốc gia xung quanh; tính thẩm mỹ độc đáo của nghề thủ công gốm sứ là sự thành thạo của người Việt đối với các kỹ thuật nung đúc quan trọng và cũng thể hiện được sự thưởng thức sau khi trải qua quá trình chọn lọc đa văn hoá. Vào thế kỷ 15 và 16, các cuộc cạnh tranh thương mại vô cùng nổi trội, trong khi người Việt xem xét thời thế, với dáng vẻ dẻo dai, họ luôn sử dụng cách khéo léo hoà giải để tạo ra không gian thuận lợi nhất cho mình. Qua các tài liệu của thế kỷ 14 đến 19, có thể thấy nước Nam với một bí mật đã tồn tại sừng sững hàng nghìn năm.
I. Hình ảnh con người và đồ vật của đất nước ngàn năm cổ đại
Việt Nam là một đất nước dài và hẹp, với đường bờ biển kéo dài gần 3.300 km. Trong quá trình lịch sử lâu đời, có rất nhiều quốc gia cổ đại, và các nhóm dân tộc chính từ Bắc xuống Nam, có thể được phân thành Việt, Chăm và Khmer. Dân tộc chủ yếu ở Việt Nam ngày nay là người Việt - là hậu duệ của tộc “Bách việt”, sống rải rác ở miền Nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam, có hình xăm, giỏi về nước, đúc được những chiếc trống đồng tinh xảo, sau này đã trở thành một biểu tượng văn hóa quan trọng của Việt Nam. Từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 10 sau Công nguyên, các triều đại Trung Quốc đã không tiếc công sức sát nhập nơi này vào lãnh thổ của họ, do đó để lại dấu vết của những ảnh hưởng văn hóa như quy chế pháp luật và nghề thủ công gốm sứ v.v…Dân tộc Chăm sống ở miền Trung Việt Nam, có quan hệ mật thiết với người Khmer và thế giới Mã Lai láng giềng, thời kỳ đầu, họ tin theo Ấn Độ giáo và Phật giáo, chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn minh Ấn Độ. Từ chiếc mũ linga lộng lẫy để lại từ thế kỷ thứ 10, có thể hình dung sự huy hoàng của Vương quốc Chămpa năm xưa, thời kỳ sau dần bị Hồi giáo hóa, diện mạo văn hóa cũng bắt đầu thay đổi. Hàng nghìn năm cạnh tranh và giao lưu song phương giữa Việt Nam và Chămpa, cũng như văn hoá ngoại lai đã phản ánh lên phong cách của vùng đất này, cùng nhau dệt nên nội hàm văn hóa phong phú và huy hoàng của Việt Nam ngày nay.
II. Gốm sứ Đại Việt được ưa chuộng trên thế giới
Trước thế kỷ 18, việc nung đồ sứ luôn ẩn chứa nhiều bí ẩn, và miền Bắc Việt Nam là một trong số ít các khu vực trên thế giới nắm được bí quyết làm gốm từ rất sớm. Kể từ cuối thế kỷ 14 của triều đại nhà Trần (1226-1400), gốm sứ Việt Nam đã được xuất khẩu sang Indonesia, Nhật Bản, Đài Loan và các nơi khác; vào thời Lê Sơ (1428-1527) và thời Mạc (1527-1592), Trung Quốc ở phía Bắc thực hiện lệnh cấm biển, gốm sứ Việt Nam nhanh chóng lấp đầy chỗ trống thị trường, mở rộng mạng lưới thương mại sang Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Tây Á và phía bắc Châu Phi, trong đó đảo Đông Nam Á là khách hàng quan trọng nhất. Vào thời điểm này, các khu vực sản xuất chính là Lò nung Chu Đậu ở Hải Dương ngày nay và Lò nung Thăng Long ở Hà Nội v.v... Đồ sứ trắng sơ nung thì đẹp mượt mà như ngọc; đồ sứ Thanh Hoa thì có nước men ôn hậu, khí chất tao nhã, loại lớn thì đoan trang cân đối, loại nhỏ lại vô cùng tinh xảo, trang trí hoa văn hoặc tinh xảo, hoặc vẽ truyền thần, tự do thoải mái. Rồi tráng một lớp men Thanh Hoa trộn lẫn với lớp tráng men màu đỏ xanh và vàng kim, tạo thành kiểu “Đấu Thái Việt Nam” phức tạp và rực rỡ, mang một vẻ đẹp mới mẻ và độc đáo.
III. Ngoại giao linh hoạt của bán đảo rồng
Người Việt thâm nhập khu vực phía đông của bán đảo Đông Nam Á, tương truyền là hậu duệ của Viêm Đế Thần Nông thị, con cháu rồng tiên Lạc Long Quân. Trải qua hàng nghìn năm, văn hóa cũng thuận theo sơn thuỷ tương liên mà thâm nhập vào đó, nhưng cũng gặp phải nguy cơ bị thôn tính hết lần này đến lần khác. Sau khi bị thống trị trong một nghìn năm, người Việt đã thành lập nhà Ngô vào năm 939 sau Công Nguyên. Kể từ đó, ở phía Bắc thì giáp Trung Quốc, ở phía Nam đối diện Chămpa, tình hình thế lực quốc tế có thể được nhìn thấy từ bản thảo quốc thư do Minh Thái Tổ viết vào cuối thế kỷ 14. Đặc biệt là trước sự ái mộ văn hóa và tinh thần cảnh giác của quân đội đối với các cường quốc phương Bắc, các tài liệu thế kỷ 18 - 19 trong bộ sưu tập cổ vật Cung điện nhà Thanh giống như một mô hình thu nhỏ, cho thấy Việt Nam, với sức mạnh quân sự ngoan cường và những phương pháp linh hoạt mềm mỏng, đã đối phó như thế nào với những vấn đề xung đột ngoại giao lớn nhỏ trong nhiều thế kỷ qua. Sự linh hoạt đã giúp cho nước Nam kiên nghị này trải qua những năm tháng thăng trầm, bao lần tươi đẹp trở lại trên bán đảo.